Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

thơ pct

"mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông".
(Trích trong tập thơ "Ngày sinh của rắn")
Thơ Phạm Công Thiện còn chứa đựng triết thuyết của Đức Phật. Một tiếng chim hót ngang trời bi thương, chứa đựng lẽ vô thường của vạn vật:
Hồi chuông chùa vọng luân hồi
Chim Chiền Chiện hót ngang trời đau thương
Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi cao bạt gió hai đường âm u"
Phạm Công Thiện có những bài thơ rất ngắn nhưng chứa đựng cả không gian và thời gian:
"Mưa chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông"
(Trích trong tập thơ "Ngày sinh của rắn")
Chính bài thơ chỉ có hai câu thơ này đã tạo cảm xúc cho nhà văn Võ Hồng viết truyện ngắn "Hoa khế lưng đồi" được nhiều người đọc yêu thích.
Trong tập thơ "Ngày sinh của rắng", Phạm Công Thiện viết những bài thơ với ngôn từ kỳ lạ, khác thường. Vừa gần gũi, vừa xa lạ với cuộc sống đời thường, mang vẻ dung tục lại đầy bí hiểm:
"tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
tôi mửa máu đen
trên nửa đêm Paris
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
mặt trời có thai!
Mặt trời có thai!
Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt"
Năm 1980, Phạm Công Thiện cho ra đời bài thơ "Trường giang Mỹ Tho" với lời thơ mới mẻ, ý thơ sâu sắc. Bài thơ gần với hơi thở của một trường ca. Đây là bài thơ đẹp của Phạm Công Thiện. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã xếp bài thơ "Trường giang Mỹ Tho" vào những bài thơ hay nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại:
"...Thôi nôi con trường giang mọi rợ
tôi mọi mãi mỗi trường an
con diều hâu chạy bắt con chim
con chim lòn qua kẽ núi
lọt ra gió Hải Nam thổi hiu hắt về Trường Sơn
nước Trường Giang mẹ ru chim ngủ
con lớn khôn rồi bỏ mẹ bay xa
Cha con già Trường Sơn con ơi
trường giang đi chảy mãi nửa đời
trường sơn già ngồi đứng hứng mưa
mưa đi từ dưới chân đỏ bồ câu thượng thủy Tây Hồ
con lớn khôn rồi quên đất quên sông
con sông nào Cửu Long chảy từ thượng tứ
Mỹ Tho buồn thây chết trôi sông
Súng nổ bên cầu quay
Mẹ bồng con đóng cửa
Lính Tây dương đang say rượu giao thừa
Bông cúc vàng đầy sân ướt máu
Ba con già con trẻ đi xa
Súng nổ trên mái lầu
Nhà cháy bên hông
Mấy dì con chơi tứ sắc
Con còn nhỏ quá con ơi
..."
(Trích bài thơ "Trường giang Mỹ Tho")
Viết về tình yêu, Phạm Công Thiện viết với một tâm hồn chân thật, đầy cảm xúc, âm điệu nhẹ nhàng gợi cho chúng ta một nỗi niềm cô đơn, xa vắng:
"cô đơn về trắng sương rừng
anh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
khuya buồn tủi nhục môi em
mưa run lặng lẽ trên thềm bơ vơ
tiếng em vàng xuống đôi bờ
hoang vu anh đứng đợi chờ chim kêu
tay gầy ôm chặt tình yêu
anh về phố gục những chiều hư vô
đời đi trên những nấm mồ
đau thương em hát cơ hồ khăn tang
phố chiều tôi bước lang thang
như con sông nhỏ mơ màng biển xanh
nửa đêm khói đốt đời anh
yêu em câm lặng như cành thu đông
đời em như một dòng sông
đôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niên
mưa chiều nước chảy triền miên
một con chim dại lạc miền hoang lương
về đâu thương những con đường
lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa"
(Bài thơ "Ca sĩ")     

Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
Khuya buồn tủi nhục môi em
Mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
Tiếng ru chín đỏ điện thờ
Hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu
Tay còn ôm giữ tình yêu
Tôi về phố động những chiều hư vô
Ðời đi trên những nấm mồ
Ðau tim em hát cơ hồ khăn tang
Phố chiều tôi bước lang thang
Nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh
Nửa đêm khói đốt đời anh
Yêu em câm lặng khô cành thu đông
Lời ca ru cạn dòng sông
Trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên
Bỏ mình nước chảy đồi tiên
Theo con chim dại lạc miền thiên hương
Về đâu thương những con đường
Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa.
(Ngày Sinh Của Rắn, IX)

Vì vậy, khi đọc, ta không cần phải suy tư, triết lý gì nữa. Ta chỉ đọc thơ mà thôi. Và cõi thơ ấy, thật trong sáng; đôi khi thơ dại...

Tôi nằm cho rã chiếu cạp điều
Nước chảy lên vùng phố tịch liêu
Tôi nhớ một lần cây quế mọc
Tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều.
(Ngày Sinh Của Rắn, II)

Ðôi khi đơn giản mà đẹp lạ lùng. Ðẹp một cách bất ngờ. Ðẹp hết ý...

Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
(Ngày Sinh Của Rắn, III)

Một bài khác, càng giản dị hơn, lời lẽ đơn sơ đến mộc mạc, đơn sơ đến trẻ thơ, chẳng khác gì đi ngược về quá khứ mà làm một bài thơ bằng lời lẽ của tuổi thơ ấu vậy.

Tết Xưa
Lơ lửng bông mồng gà
Chiều ba mươi tết ta
Tôi ôm gà tre nhỏ
Chạy trốn tuổi thơ qua.

Ðến như bài sau này thì hết lời bàn. Cả một đời trăn trở, vật mình với triết lý, ông vẫn cứ như vậy... vẫn bên này nhìn bên kia, đồi này ngóng đồi nọ; vẫn mây trắng bay, vẫn gọi nhau nhỏ nhẹ nỗi nhớ,  vẫn sông sâu và ngày tháng đợi chờ ... và vẫn một đêm, một tháng, một năm, một đời, trôi lang thang...

Thiên Sương
Mộng ở đầu cây mơ lá cây
Dòng sông ngừng chảy đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
Chim hải hồ bay trắng tháng ngày

Tình nhỏ quên rồi em ở đâu
Mây bỏ trời đi tìm sông sâu
Em về lồng lộng như sương trắng
Hồn chết trôi về Thương Hải Châu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét