Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2014

gặp lại cố nhân

Gặp lại cố nhân.
.
Mười mấy năm rồi mới gặp lại người ấy
Cô ấy bây giờ đã có chồng và 3 đứa con
.
Hiện sinh sống và làm việc ở nước ngoài
.
Bây giờ mà cô ấy vẫn còn trách móc giận hờn...
.
Mình bảo. thôi chuyện qua rồi, bây giờ e củng lấy chồng và có con rồi còn gì...
.
.
.
.
Cô ấy gào lên.......... quên là quên thế nào được.
.
.
.
.
Ông thiếu tiền tui ko chịu trả giờ còn bảo tui quên
.
.
.
.
Sao thế nhễ. chuyện cũ ko vui thì thôi nhắc lại làm gì? hơn nữa thằng này chỉ có nợ dai thôi chứ có quỵt ai bao giờ đâu.

TỰ CAO TRONG PHẬT GIÁO

TỰ CAO TRONG PHẬT GIÁO
Tự cao dẫn tới bất hạnh, bởi thực tế luôn có người hơn bạn. Khi bạn phát hiện ra rằng có ai đó giàu có hơn bạn, ưa nhìn hơn bạn và nổi tiếng hơn bạn v...v thì niềm kiêu hãnh của bạn sẽ bị tổn thương và bạn sẽ trở nên tự ti, bất hạnh.
Bạn không thể trở thành người số một trong mọi lĩnh vực, vì thế tốt hơn hết hãy khiêm cung. Khiêm cung là pháp đối trị cho tự cao. Trong cuộc sống, những người khiêm cung sẽ được tôn trọng và kính trọng hơn. Đố kỵ là một trạng thái tâm tiêu cực, ngăn cản chúng ta tận hưởng những gì chúng ta đang có.
Chúng ta muốn có nhiều hơn những gì người khác có. Trong sự lo toan cố gắng sở hữu những thứ người khác có, chúng ta không thể tận hưởng những gì chúng ta có. Tu tập Phật pháp, hay làm những thiện hạnh tích cực mà trong tâm còn đố kỵ, thì sự tu tập trở thành tiêu cực, bất kể trông bề ngoài như thế nào, điều quyết định là ý định tốt hay xấu hàm chứa phía sau!

vì sao người lương thiện lại khổ

Tôi đã tìm một người thầy thông thái và đạo hạnh xin chỉ bảo:
-Vì sao những người lương thiện như con lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt như vậy

Thầy hiền hòa nhìn tôi trả lời:
- Nếu một người trong lòng cảm thấy khổ, điều đó nói lên rằng trong tâm người này có tồn tại một điều ác tương ứng. Nếu một người trong nội tâm không có điều ác nào, như vậy, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là người thật sự ác.
Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là người ác thật sự.
Có cảm giác như bị xúc phạm, tôi không phục, liền nói:
-Con sao có thể là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!

Thầy trả lời:
-Nội tâm không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con đang tồn tại điều ác. Con hãy nói về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con.
Tôi nói:
-Nỗi khổ của con thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không đủ rộng, thường xuyên có “cảm giác thua thiệt” bởi vậy trong tâm con thường cảm thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này; trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…
Cứ như vậy, lần lượt tôi kể hết với thầy những nỗi thống khổ của mình.
Thầy gật đầu, mỉm cười, một nụ cười rất nhân từ đôn hậu, người từ tốn nói với tôi:
Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống chính con và Gia đình. Con còn có cả phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, chỉ là diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm ấy.
-Nhưng, bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy, con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.
Trong xã hội có nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo mạn. Tâm ngạo mạn cũng là ác tâm. Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu có, kiếp trước làm việc thiện mới là nguyên nhân cho sự giàu có của kiếp này. Tâm ngu si cũng là ác tâm!
Người thân không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng. Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như con? Không rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm.

Sư phụ tiếp tục mỉm cười:
- Lòng tham, tâm đố kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói.”
Con đem niềm vui và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem, căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với thái độ lạc quan, hòa ái, cần cù để thay thế lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ; nội tâm của con sẽ dần chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.
-Trong xã hội, nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ, nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện! Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!”

Con cho rằng, con có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng: “Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có thể cảm thấy tròn đầy và an vui.
-Kiếp trước làm việc thiện mới chính là nguyên nhân cho sự giàu có ở kiếp này, (trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu). Mà người thường không hiểu được nhân quả, trồng dưa lại muốn được đậu, trồng đậu lại muốn được dưa, đây là thể hiện của sự ngu muội. Chỉ có người chăm học Phật Pháp, mới có được trí huệ chân chính, mới thật sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới có thể minh tỏ thấu triệt. Để từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành vi và lời nói của mình cho phù hợp. Người như vậy, mới có thể theo ánh sáng hướng đến ánh sáng, từ yên vui hướng đến yên vui.”
-Bầu trời có thể bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi! Một người sống trong thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải tùy duyên tự tại! Vĩnh viễn dùng tâm lương thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên cưỡng cầu điều gì.
-Nếu tâm một người có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?
Vị thầy khả kính nói xong những điều này, tiếp tục nhìn tôi với ánh mắt đầy nhân từ và bao dung độ lượng.

Ngồi im lặng hồi lâu…xưa nay tôi vẫn cho mình là một người rất lương thiện, mãi đến lúc này, phải! chỉ đến lúc này, tôi mới biết được trong tôi còn có một con người rất xấu xa, rất độc ác! Bởi vì nội tâm của tôi chứa những điều ác, nên tôi mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm của tôi không ác, sao tôi có thể khổ chứ ?
Xin cảm tạ thầy, nếu không được người khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!
Từ Đạo Tâm

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

Hịch Tiến Sỹ


Ta cùng các ngươi
Sinh ra phải thời bao cấp

Lớn lên gặp buổi thị trường.
Trông thấy:
Mỹ phóng Con thoi lên vũ trụ chín tầng
Nga lặn tàu ngầm xuống đại dương nghìn thước
Nhật đưa rô bốt na nô vào thám hiểm lòng người
Pháp dùng công nghệ gen chế ra cừu nhân tạo…
Thật khác nào:
Đem cổ tích biến thành hiện thực
Dùng đầu óc con người mà thay đổi thiên nhiên!
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt
đầm đìa
Chỉ giận chưa thể đuổi kịp nước Nga, vượt qua nước Mỹ, mà vẫn chỉ hơn
Lào, hao hao Băng la đét.
Dẫu cho trăm thân này phơi trên sao Hỏa, nghìn xác này bọc trong tàu
ngầm nguyên tử, ta cũng cam lòng.
Các ngươi ở cùng ta,
Học vị đã cao, học hàm không thấp
Ăn thì chọn cá nước, chim trời
Mặc thì lựa May Mười, Việt Tiến
Chức nhỏ thì ta… quy hoạch
Lương ít thì có lộc nhiều.
Đi bộ A tít, Cam ry
Hàng không Elai, Xi pic.
Vào hội thảo thì cùng nhau tranh luận
Lúc tiệc tùng thì cùng nhau “dô dô”.
Lại còn đãi sỹ chiêu hiền
Giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, ai cũng có phần, không nhiều thì ít.
Lại còn chính sách khuyến khoa
Doanh nghiệp, giáo viên, trí thức, nông dân nhận cúp, nhận bằng còn
thêm tiền thưởng.
Thật là so với:
Thời Tam quốc bên Tàu, Lưu Bị đãi Khổng Minh,
Buổi hiện đại bên Nga, Pu tin dùng Mét vê đép,
Ta nào có kém gì?
Thế mà, nay các ngươi:
Nhìn khoa học chậm tiến mà không biết lo
Thấy công nghệ thụt lùi mà không biết thẹn
Giáo sư ư? Biết “Thần đèn” chuyển nhà mà chẳng chạnh lòng
Tiến sỹ a? Nghe “Hai lúa” chế tạo máy bay sao không tự ái?
Có người lấy nhậu nhẹt làm vui
Có kẻ lấy bạc cờ làm thích
Ham mát xa giống nghiện “u ét đê”
Ghét ngoại ngữ như chán phòng thí nghiệm
Chỉ lo kiếm dự án để mánh mánh mung mung
Không thích chọn đề tài mà nghiên nghiên cứu cứu
Ra nước ngoài toàn muốn đi chơi
Vào hội thảo chỉ lo ngủ gật
Bệnh háo danh lây tựa vi rút com pu tơ
Dịch thành tích nhiễm như cúm gà H5N1
Mua bằng giả để tiến sỹ, tiến sy
Đạo văn người mà giáo sư, giáo sãi.
Thử hỏi học hành như rứa, bằng cấp như rứa, thì mần răng hiểu được
chuyện na niếc na nô?
Lại còn nhân cách đến vậy, đạo đức đến vậy, thì có ham gì bút bút
nghiên nghiên.
Cho nên:
“Tạp chí hay” mà bán chẳng ai mua
“Công nghệ tốt” mà không người áp dụng.
Đề tài đóng gáy cứng, chữ vàng, mọt kêu trong tủ sắt
Mô hình xây tường gạch, biển xanh, chó ị giữa đồng hoang.
Hội nhập chi, mà ngoại ngữ khi điếc, khi câm?
Toàn cầu chi, mà kiến thức khi mờ, khi tỏ?
Hiện đại hóa ư? vẫn bám *** con trâu
Công nghiệp hóa ư? toàn bán thô khoáng sản
Biển bạc ở đâu, để Vi na shin nổi nổi chìm chìm, lưởi bò liếm liếm
Rừng vàng ở đâu, khi bô xít đen đen đỏ đỏ
Thật là:
“Dân gần trăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”!
Nay nước ta:
Đổi mới đã lâu, hội nhập đã sâu
Nội lực cũng nhiều, đầu tư cũng mạnh
Khu vực có hòa bình, nước ta càng ổn định
Nhân tâm giàu nhiệt huyết, pháp luật rộng hành lang
Thách thức không ít, nhưng cơ hội là vàng!
Chỉ e:
Bệnh háo danh không mua nổi trí khôn
Dịch thành tích chẳng làm nên thương hiệu.
Giỏi mánh mung không lừa nổi đối tác nước ngoài
Tài cờ bạc không địch nổi hắc cơ quốc tế.
Cặp chân dài mà nghiêng ngả giáo sư
Phong bì mỏng cũng đảo điên tiến sỹ.
Hỡi ôi,
Biển bạc rừng vàng, mà nghìn năm vẫn mang ách đói nghèo
Tài giỏi thông minh, mà vạn kiếp chưa thoát vòng lạc hậu.
Nay ta bảo thật các ngươi:
Nên lấy việc đặt mồi lửa dưới ngòi pháo làm nguy;
Nên lấy điều để nghìn cân treo sợi tóc làm sợ
Phải xem đói nghèo là nỗi nhục quốc gia
Phải lấy lạc hậu là nỗi đau thời đại
Mà lo học tập chuyên môn
Mà lo luyện rèn nhân cách
Xê mi na khách đến như mưa
Vào thư viện người đông như hội
Già mẫu mực phanh thây Gan ruột, Tôn Thất Tùng chẳng phải là to
Trẻ xông pha mổ thịt Bổ đề, Ngô Bảo Châu chỉ là chuyện nhỏ
Được thế thì:
Kiếm giải thưởng “Phiu” cũng chẳng khó gì
Đoạt Nô ben không là chuyện lạ
Không chỉ các ngươi mở mặt mở mày, lên Lơ xút, xuống Rôn roi
Mà dân ta cũng hưng sản, hưng tâm, vào Vi la, ra Rì sọt.
Chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu
Mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng,
Chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí,
Mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm.
Chẳng những tên tuổi ta không hề mai một,
Mà thương hiệu các ngươi cũng sử sách lưu truyền.
Trí tuệ Việt Nam thành danh, thành tiếng
Đất nước Việt Nam hóa hổ, hóa rồng
Lúc bấy giờ các ngươi không muốn nhận huân chương, phỏng có được
không?
Nay ta chọn lọc tinh hoa bốn biển năm châu hợp thành một tuyển, gọi là
Chiến lược
Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời ta dạy bảo thì suốt
đời là nhà khoa học chính danh.
Nhược bằng không tu thân tích trí, trái lời ta khuyên răn thì muôn
kiếp là phường phàm phu tục tử.
Vì:
Lạc hậu, đói nghèo với ta là kẻ thù không đội trời chung
Mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn trừ hung, không lo rửa nhục
Giữ một ngọn cỏ, cành cây, giọt nước trong giang sơn ta cũng làm ta
quên ăn mất ngũ
Mà các ngươi cứ điềm nhiên lo tranh quyền đoạt lợi
Chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà thua giặc.
Nếu vậy rồi đây không biết dân Việt ta đi về đâu nữa, ta cùng các
ngươi há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất này nữa?
Trí thức là nguyên khí quốc gia
Cho nên ta mới thảo Hịch này
Xa gần nghiên cứu
Trên dưới đều theo!

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

VN còn là một cường quốc Văn Hoá.

Bảo Việt Nam một cường quốc Thơ là đúng, nhưng chưa đủ. VN còn là một cường quốc Văn Hoá.
Văn hoá ta phát triển không ngừng và phát huy toàn phương vị. Phủ sóng cả nước. Nó tiến nhanh gấp vạn lần mức tăng trưởng kinh tế.

Văn hoá ta phong phú cực kỳ. Liệt kê cả ngày không hết. Nhưng hãy tạm chia làm ba nhóm, cho dễ bổ xung, cập nhật: Văn hoá ngoại vi (của xã hội); Văn hoá nội bộ (của đảng & nhà nước); và Văn hoá cốt lõi (của riêng tầng lãnh đạo).


* * *

Văn Hoá “Ngoại Vi”: không nhiều chủng loại, nhưng phổ biến đại trà, báo chí tận lực khai thác thành phóng sự nhiều tập với phần hướng dẫn rành rọt…

Văn hoá ôm: Phát huy vốn tự có. Khởi đầu là bia ôm, tới đế ôm, cà phê ôm, trà đá ôm, hớt tóc ôm, vọng cổ ôm, ngủ trưa ôm, tắm ôm…

Văn hoá nhậu: Thất nghiệp, nhậu. Trúng quả, nhậu. Thua độ, nhậu. Ăn trưa, nhậu. Tan tầm, nhậu. Móc ngoặc, nhậu. Liên hoan, nhậu. Hội thảo, nhậu. Hội nghị, nhậu hoành tráng…

Văn hoá phao: Ta có thường xuyên các lớp luyện tủ. Hàng năm có thêm chợ phao, cò phao, giám thị chuyển phao. Lại có lắm phao đầy tính sáng tạo: Trong lòng tay, sau vạt áo, viền nịt ngực, lận gấu váy, trên đùi non…

Văn hoá dells: Khẳng định đẳng cấp xã hội trong mọi câu chuyện bằng chủ ngữ dells. Bất kể tuổi tác người nghe. Liên thanh. Đầy đạn. Không dells là bất bình thường.

Văn hoá sushi: Hiển hiện cái nghèo, không cần che đậy cách ăn lộ tính cách tham. Cả ngoài phố lẫn trong hàng Buffet.

Văn hoá teen nữ: Với sự trợ giúp đắc lực của
camera
phone và Youtube: Đánh ghen hội đồng. Túm tóc, lột áo, tụt quần, thỉnh thoảng buông guốc đưa tình địch teen nhập viện cấp cứu…

Văn hoá tự xử: Điểm khởi là không tin vào công lý. Giết nhau vì cái hàng rào lấn đất. Đốt xe, giết trộm chó. Đâm nhau vì nhìn đểu. Truy sát vì va quệt xe máy…

Văn hoá “nhẫn”: Trào lưu chơi thư pháp. Thuyết chịu nhục. Hàn Tín lòn trôn Hàn Tín cười. Tự phục mình dai sức. Nín thở qua sông! Việc nhân nghĩa cốt ở… yên thân! (chữ của Phạm Lưu Vũ).

Văn hoá makeno: Nó chết, chẳng can gì mình. Xứ nào chẳng có tham nhũng? Ở đâu không có rác? Chính trị là chuyện bao đồng! Chừng nào bùn đỏ Tây Nguyên mới tràn tới đây? Biển đảo là chuyện lớn, nghe lờn từ đám lợn: Đã có đảng và nhà nước lo…

* * *

Văn hoá “nội bộ”: Đa dạng, tinh vi, phát triển đồng bộ, có rào chắn, có ba-rem chia phần theo hệ thống.

Văn hoá bổ túc: Trước khi vào rừng. Trong lúc ở rừng. Sau khi từ rừng về thành thị làm lãnh đạo. Vẫn còn hoang mang không phân biệt rõ chữ y dài hay chữ h ngược.

Văn hoá thành tích: Tiên tiến, đạt danh hiệu xuất sắc, là ngành… giáo dục. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp là thước đo hiệu năng của trường. Cả hệ thống cùng thi đua đẩy thông số báo cáo lên mức cao nhất có thể để chiếm danh hiệu “đạt chất lượng”. Các ngành khác tất nhiên không thể chịu thua. Nó là bà đỡ của nền văn hoá hình thức, gian dối, láo khoét. Láo với dân và láo cả với nhau.

Văn hoá “Bước đầu”: Mọi diễn văn ở xứ này, suốt 84 năm qua, đều không thể thiếu cụm từ “bước đầu. Không sai mấy! Bất kỳ bước nào của con bò đi vòng cối xay đều có thể tính là bước đầu, bất kể là nó đã đi được bao nhiều cây số.

Văn hoá “Tuy nhiên”: Đối nghịch với những bước đầu thắng lợi đó là những “tuy nhiên”. Cho dẫu vòng vo, nhưng nhất định không thể thiếu. Còn đó hàng đống những báo cáo có một bước đầu với hàng chục tuy nhiên. Mọi chính sách hay chiến lược đều bị lũ tuy nhiên này giết chết tươi, trước cả khi người dân vùng sâu vùng xa nghe nói về nó. Ngành văn cần xếp loại cho các báo cáo cặp đôi hoàn hảo này. Văn tế khép vòng, được chăng?

Văn hoá bằng giả: Bằng tiến sĩ “quốc tế” giá 17.000USD. Quan chức dùng bằng của anh họ, thậm chí, bằng của người chết. “Giá tiền để làm luận án phó tiến sĩ, nay gọi là tiến sĩ từ 20 đến 30 triệu đồng và điều cực kỳ khôi hài là một sinh viên mới tốt nghiệp đại học, không tìm được việc làm mới quay ra làm luận án tiến sĩ thuê” (Hoàng Xuân Sính). “Nhận tư vấn viết luận văn tốt nghiệp cho sinh viên, nghiên cứu sinh các ngành khoa học. Có dịch vụ trọn gói" (quảng cáo trên báo Mua&Bán của bộ Thương Mại).

Văn hoá chạy chức: Chính thực đây là hình thái kinh tế thị trường không cần đuôi định hướng: “Đầu mối chạy vào công chức các quận huyện chính là trưởng phòng nội vụ của các quận huyện” (Trần Trọng Dực). “500.000 đô la không hạ gục được sự liêm khiết của người lãnh đạo đó thì 1.000.000 đô la” (Phạm Quang Nghị). “Cần luật hóa chạy chức chạy quyền” (Cựu Viện trưởng Học viện Hành chính Quốc gia Nguyễn Hữu Tri).

Văn hoá bao che: Dân tát công an, đi tù. CA giết dân, cảnh cáo hay “kỷ luật nội bộ”. Từ lâu, đã là một truyền thống đi vào hệ thống. “Kỷ luật hết lấy ai làm việc” (Nguyễn Sinh Hùng). “Đánh chuột sợ vỡ bình” (Nguyễn Phú Trọng)…Vì nó đã chung tiền chạy chức, và chung chi hàng tháng dọc đường dây lên tới BCT? Đây chính là cội nguồn chiến lược động viên cái sai, lòng tham và tính ác.

Văn hoá điều chuyển: Đi chỗ khác. Làm việc khác. Ít ai biết. Thăng chức… cho nó chết! Chỉ cần điều chỉnh chút xíu hai đường dây chung chi, một cắt, một nối, ngả khác, nhưng đường nào chẳng về trung ương?

Văn hoá bánh mì nước lọc: Cụm từ này khởi đi từ sếp công an, bênh vực cho công an giao thông hươ gậy tính tiền. Sau, được dùng đại trà thành tiếng lóng, bởi không ngành nào không ăn. “Ăn không chừa thứ gì” (Nguyễn Thị Doan). Cũng không chừa cấp nào. Thanh tra là ngành có biệt tài xây dựng biệt thự đẹp nhất. Còn nhà thờ họ hoành tráng và trương mục Thuỵ Sĩ thì phải ở cấp cao hơn.

Văn hoá cưỡng chế: Dùng xe cơ giới san bằng nhà dân (lấy đất ruộng quy hoạch thành gia tài). Phát minh súng bắn lưới làm ngã xe máy để bắt người. Canh cửa/bám sát/chận đầu/giật chìa khoá xe… đều là những sáng tạo thần kỳ.

Văn hoá vu khống: Bao cao su. Trốn thuế. Hai xe đi hàng ba. Cao hơn một bậc là tội manh động/lật đổ… rồi phô trương cơ bắp bằng những cuộc diễn tập chống khủng bố (có định danh).

Văn hoá kết luận: Mỗi nghị quyết/sắc lệnh/quy định… đều có một kết luận nào đó mở đường. Từ cấp trung ương đến cấp xã. Đông như quân Nguyên. Hội thảo thì ngược lại, kết luận theo nghị quyết. Chung quy cùng kiểu: Nợ công chưa chạm trần. Vinashin sẽ có lãi. Bô-xit Tây Nguyên cực an toàn… Biển thủ xong là mắc bệnh tâm thần. Còn chết tại đồn công an luôn luôn là tự tử (lắm khi bằng dây giày, của nạn nhân mang dép lê). Đến mức có thành ngữ mới là “dễ như treo cổ trong đồn công an”. Đáng sợ nhất xứ này vẫn là những bản Kết luận Điều tra.

Văn hoá mắm tôm: Ném vào nhà dân những mắm tôm, dầu nhớt, chất thải. Cưa đá bắn bụi mù vào dân trước tượng đài Lý Thái Tổ. Khiêu vũ và trình diễn văn nghệ hở đùi để choán chỗ biểu tình.

Văn hoá trả thù: Chèn xe. Ép xuồng. Đạp mặt. Xiết cổ. Quặt tay. Bắt cóc. Nhốt vào trại phục hồi nhân phẩm. Nhắn tin doạ giết. Ung thư không được đi viện điều trị. Tiêm khuẩn HIV. Đi nước ngoài về bị đầu độc ngay tại sân bay…

Văn hoá định hướng dư luận: Tuyên giáo trung ương được nâng cấp thành xưởng đẻ dư luận viên. Những Nhật này với Nhật nọ hùng hồn đến mức làm thui chột nhiều loạt bài trên báo ND & QĐND. Mất cả chì lẫn chài. Còn dư luận thì vẫn rung đùi trên FB.

Văn hoá tiền chùa: Quỹ đen. Dễ chi. Những hoá đơn bar rượu lên tới 200 triệu một lần nhâm nhi. Cao hơn, là những phóng tay lấy phần trăm: Ngàn năm Thăng Long/Pháo hoa “quốc khánh”… Thuế của dân đói/dân oan… như thùng công đức của chùa.

Văn hoá chạm cốc vỡ mặt: Thực khách tiệc ngồi bật dậy đãi nhau món tiết canh mũi. Là khi liên hoan cơ sở có bất đồng về tỷ lệ phần trăm từng thoả thuận.

Văn hoá hát nhép: 700 tờ báo và gần 70 đài truyền hình chỉ cần 1 tổng biên tập. Thi thoảng có người lượm được vật rơi trả lại cho khổ chủ là lên ngay trang nhất các báo. Phóng viên bị công an đánh vỡ mặt thì nháy nhau im lặng là vàng.

Văn hoá dự án: Chạy vốn chung chi để được chia dự án. Hai bên đều có lợi. Cò cũng lợi. Sau đó, dự án trở thành của riêng gia tộc. Còn tiền nợ viện trợ phát triển kia là của dân.

Văn hoá khất nợ: Các câu lạc bộ tài chánh Âu châu cùng nhiều định chế tài chính quốc tế đều nhẵn mặt dàn lãnh đạo bị gậy cúi mặt ngửa tay.

Văn hoá bầu cử: Luôn luôn có tỷ lệ cử tri bỏ phiếu cao nhất hành tinh. Các lãnh đạo được bầu vào QH cũng đạt tỷ lệ số phiếu không đâu bằng. Cư dân Châu Quỳ/Chợ Quán còn có thể biết trước kết quả bầu cử cả tuần. Kết quả tương tự chỉ có thể xảy ra ở Cuba/Triều Tiên/TQ (chính là nơi thanh niên Hongkong đang Chiếm đóng Trung tâm đòi quyền tự quyết bằng lá phiếu thật của họ).

Văn hoá rút ruột: Do quan hệ hữu nghị thắm thiết giữa chủ đầu tư và nhà thầu xây dựng. Mọi tuyến đường đều lún sụt ngay sau lễ khánh thành/thông xe. Kể cả những đoạn đường do dân đóng góp. Bẫy tử thần nắp cống. Cao ốc chung cư sập trần… Ngay cả cầu Sông Hàn (thuộc vùng cát cứ của Trưởng ban Nội chính trung ương) cũng thiếu ruột như xác ướp. Văn hoá rút ruột được lan truyền nhanh qua lãnh vực xăng dầu (Bình Dương/Nghệ An/Hải Phòng/Quảng Ninh…).

Văn hoá vô trách nhiệm: Nói vo. Lỗi hệ thống. Lời hứa hùng hồn lúc nhậm chức chỉ đợi dịp giật nước cuốn trôi. Không một ai có trách nhiệm để nhận lỗi. Ngoại trừ trách nhiệm (và chức vụ) “được đảng giao phó” thì phải bảo trọng như gìn giữ con ngươi, cho dù không còn là con người.

Văn hoá cấm: Lệnh cấm và biển cấm đông hơn chuột đồng mùa gặt. Cái gì không kiểm soát được thì cấm. Ngoại trừ truyền thống phong bì.

Văn hoá nâng bi: Trưng bày kỷ vật của (đương nhiệm bí thư) Phạm QuangNghị tại bảo tàng Hà Nội.

Văn hoá thừa sai: Thường nghe nhất là lỗi thằng đánh máy. Hầu hết các lỗi tày đình là do bộ phận thừa hành làm sai, còn chủ trương của lãnh đạo thì tất nhiên luôn luôn đúng. Dung Quất/Bô-xít/Vinashin/Vinalines đều là những chủ trương lớn và đúng.

Văn hoá tế thần: Một vài thừa sai phải hy sinh cho thượng cấp. Hoặc vào tù (Vũ Ngọc Hải/Trần Mai Hạnh/Dương Chí Dũng…). Hoặc về đất (Phạm Quý Ngọ).

Văn hoá từ điển: Tuyền là những định nghĩa ngang eo thời đại. “Tự do CCC” (Vũ Văn Hiển). “Thu nhập cao là nghề bán vé số” (Giàng Seo Phử). “VN chưa phải là một siêu cường kinh tế để đài thọ cho sự ô danh [có quyền biểu tình]” hoặc “Dương Trung Quốc: Tứ đại ngu” (Hoàng Hữu Phước). “Hàn Quốc coi nợ xấu là của toàn xã hội nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu” (Phan Trung Lý). “Quyền im lặng không phải quyền con người” (Đỗ Văn Đương)…

Văn hoá nhầm: “Kính mời quý đại biểu đến tham dự hội thảo Tính ưu việt của kim chi” (Tô Văn Động). Hà Nội trả nhầm 78 tỷ đồng cho một Cty không liên quan đến dân mất đất. “Trong số 944.425 bản kê khai tài sản [quan chức] chỉ có 1 trường hợp không trung thực [nhầm]” (Trần Đức Lượng). “Nhật cho vay 2 tỷ USD xây sân bay Long Thành” (Phạm Quý Tiêu, sau đó, chỉ xin lỗi Đại sứ Nhật). Câu nói nhầm hay nhất nhưng chưa đúng thời điểm sử dụng là của đài truyền hình Hà Nội: “Chúc một ngày Quốc Tang vui vẻ”. Hãy đợi đấy!

Văn hoá giải trình: Nguyên nhân xe cháy/nhà cháy… là vì lửa. Bùn đỏ chỉ là bùn… có màu đỏ. Vỡ đập là do xe tải va chạm. Chủng ngừa mà gây chết người là lỗi ở vắc-xin. Cầu không sập, cầu chỉ tạo dáng hình chữ “V”.

Văn hoá gật: Còn có tên khác là Văn hoá Tín nhiệm. Chỉ ngưng bấm game khi có yêu cầu bấm nút tín nhiệm. Chất vấn sao cho… đầy tủ, là được!

Văn hoá cà lăm: “Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và pháp lý…” (Phan Thuý Thanh, Lê Dũng, Nguyễn Phương Nga, Lê Thanh Nghị, Lê Hải Bình).

Văn hoá thù địch: Chống luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Làm rõ bộ mặt của các thế lực thù địch. Âm mưu cơ bản của các thế lực thù địch. Một số hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Đấu tranh chống các quan điểm tư tưởng sai trái, thù địch… Chủ nhân chính thức của quan điểm thù địch chính là đảng và nhà nước CSVN, đối với dân, và cả với nhau.

Văn hoá thắng lợi: “Khi TQ rút giàn khoan 981 là ta đạt thắng lợi trên biển Đông” (Nguyễn Phú Trọng). Suy rộng ra, khi TQ hoàn tất đường băng trên Trường Sa và thiết lập xong Vùng nhận dạng phòng không, thì chúng ta mới đạt hoàn toàn thắng lợi?

* * *

Văn Hoá Cốt Lõi: Chỉ có một…

Văn hoá nô lệ: Bắt nguồn từ kẻ bồi tàu xuất hành từ bến Nhà Rồng, khám phá ra tư tưởng Mác-Lê là ngọn hải đăng soi đường… đưa dân tộc vào tròng nô lệ Liên Xô rồi Trung Quốc (Hội nghị Thành Đô). Bằng cái giá hàng triệu sinh linh nằm dọc Trường Sơn, Kampuchia, và 6 tỉnh biên giới Bắc. Bằng tài nguyên đất nước và hàng chục vạn lao nô trả nợ chiến phí. Bằng biển đảo và đất đai Tổ Quốc. Và cả những cuộc đi đêm với hầu hết các cựu thù. Ngoại trừ kẻ thù chính là dân tộc VN.
Đó là bệ đỡ của thứ Văn hoá cúc cung: Bên trong là nô lệ thủ trưởng. Bên ngoài là nô lệ ngoại bang.
Đó cũng là bệ đỡ của thứ Văn hoá Hèn (13 tướng lãnh đồng loạt sang Bắc Kinh dâng biểu xin hàng).
Và thứ Văn hoá Ác (với dân oan, với người biểu tình báo động lần Bắc thuộc sau cùng).
Tóm lại, đó là cái nôi kách mệnh sản sinh ra tất cả các thứ văn hoá liệt kê bên trên.

* * *

Xem ra, với ngần đó thứ văn hoá nháo nhào, VN xứng đáng nhận huy hiệu vinh quang là một cường quốc văn hoá toàn phương vị.

Đứa nào bảo văn hoá ta “không theo kịp đà tăng trưởng, chưa phát triển tương xứng với yêu cầu đề ra”, thì đích thị nó là một thằng… mù văn hoá.

20/10/2014 – Chào mừng hội Liên hiệp Phụ nữ VN vừa tròn… 84 tuổi.

Đinh Tấn Lực
Theo blog Đinh Tấn Lực

từ ngữ phong phú

Tìm mãi mới biết, bây giờ nhiều từ ngữ phong phú quá!
Ở Việt Nam
stt = status: trạng thái, tình trạng
cmt = comment: bình luận
ad = admin, administrator: quản trị viên
mem = member: thành viên
rela = relationship: mối quan hệ
pr = public relations: quảng cáo, lăng xê
cfs = confession: tự thổ lộ, tự thú
19 = one night: một đêm
29 = tonight: tối nay
ib (hoặc inb) = inbox: hộp thư đến, nhắn tin riêng (trong facebook)
FA = forever alone: cô đơn mãi mãi
FB = facebook
FC = fan club
FD = free day: ngày nghỉ
FS = fan sign: tấm bảng viết và vẽ tay được trang trí nhiều màu sắc, slogan thể hiện sự hâm mộ thần tượng hoặc đối tượng yêu thích
PS = post script: tái bút
5ting= fighting (số 5 là five, đọc giống fight). Ví dụ profile = pro5
Ở nước ngoài
brb = be right back
gtg = got to go
l8r = later
omg = oh my gosh or god
ttyl = talk to you later
srsly = seriously
dw = don't worry
lol = laugh out loud
rofl = roll on floor laugh
roflol = roll on floor laugh out loud
lmbo = laugh my butt off
kwl = cool
awsm = awesome
roflmbo = roll on floor laugh my butt off
idk = i don't know
wtevr = whatever
y = why
k = okay
4evr = forever
soz = sorry
plz = please
nty = no thank you
ty = thank you
r = are
mch = much
bby = baby
nvr = never
ilu or ily = i love you
2moro = tomorrow
ASL = age, sex, location
afk = away from keyboard
bk = back
ASAP = as soon as possible
bcuz = because
b/c = because
d/c = disconnection
bbfn or bb4n = bye bye for now
sec = second
bf = boyfriend
gf = girlfriend
bff = best friend forever
bffl = best friend for life
buhbye = bye
cm = call me
meh = me
ct = can't talk
cul8r = see you later
cya = see ya
def = definitely
r8 = rate
dewd = dude
l8 = late
EML = email me later
F2F = face to face
GAL = get a life
gawd = god
GGP = gotta go pee
GRRRRR = growling/angry
h/o = hold on
xoxo = hugs and kisses
HAK or H&K = hugs and kisses
huh = what
huggles = hugs
im = i am
fyi = for your information

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2014

Hạnh phúc, là những gì giản đơn nhất , đâu cứ phải tìm đâu xa

Hạnh phúc, là những gì giản đơn nhất , đâu cứ phải tìm đâu xa

NGƯỜI TRẺ VÀ 5 LỰA CHỌN QUAN TRỌNG NHẤT CUỘC ĐỜI.

Chọn Lẽ để sống là chọn “đích đến” và “bánh lái”, là chọn “hệ điều hành” cho cuộc đời;
Chọn Người để lấy là lựa chọn cho mình một gia đình, một tổ ấm, một nơi chốn bình yên để đi về, để là “bệ phóng” của nhau trong cả cuộc đời;
Chọn Việc để làm là chọn cho mình một sự nghiệp, để hiện thực hóa giấc mơ cuộc đời;
... Xem thêm
NGƯỜI TRẺ VÀ 5 LỰA CHỌN QUAN TRỌNG NHẤT CUỘC ĐỜI.
Trong vô vàn lựa chọn mà đời người phải trải qua, không phải lúc nào chúng ta cũng đúng. Nhưng, trước những lựa chọn quan trọng nhất, việc đưa ra quyết định sáng suốt sẽ cho chúng ta một cuộc đời “thăng hoa” như mong muốn và ngược lại.
Đối với những người trẻ, điều này lại càng có ý nghĩa hơn bởi họ có cả một tương lai phía trước đang chờ đợi, mà việc đưa ra những lựa chọn đúng được sớm chừng nào lại khiến tương lai ấy rõ ràng hơn chừng đó.
Người trẻ và 5 lựa chọn quan trọng nhất cuộc đời
1. Chọn LẼ để SỐNG
Lẽ sống chính là hoài bão và sứ mệnh của cuộc đời, là giá trị nền tảng, chuẩn hành xử của của chính mình. Xác định lẽ sống chính là trả lời câu hỏi: “Mình là ai, mình sống để làm gì, mình sẽ dùng cuộc đời của mình vào việc gì và việc đó có đáng để dùng hay không?”.Xác định lẽ sống cũng chính là việc chọn cho mình lý do để sống (rốt cuộc ý nghĩa của cuộc đời mình nằm ở đâu) – được coi là “đích đến”, “bánh lái”, hay sẽ là “ma đưa lối, quỷ đưa đường” trong cuộc đời chúng ta. Đây là lựa chọn quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng tới tất cả những lựa chọn còn lại. Không phải ai cũng chọn được đúng “đích đến” và “bánh lái” cho mình và hậu quả là cuộc đời của họ nhiều khi sẽ rất uổng phí hoặc vô cùng bi kịch. Con người sinh ra vốn dĩ là lương thiện, nhưng chọn lẽ sống khác nhau thì sẽ có những con người khác nhau, cuộc đời khác nhau và số phận khác nhau.
2. Chọn NGƯỜI để LẤY
Phải bắt đầu lựa chọn này từ việc mình muốn có một gia đình như thế nào. Tình yêu là một phạm trù hoàn toàn mang tính cảm xúc nhưng hôn nhân lại có cả yếu tố lý trí. Lấy vợ, lấy chồng thì có lẽ ai cũng làm được (chỉ trừ những người không thèm lấy hoặc không tìm được người phù hợp). Tuy nhiên, không phải ai cũng tìm cho mình được một người vợ, người chồng, và đồng thời cũng là một người bạn đời!Người ta hay nói là trong tất cả các kiểu bạn (bạn xã giao, bạn tâm giao, bạn tư giao, bạn tri kỷ…) thì chọn bạn đời là khó nhất. Khi chọn bạn đời, điều kiện cần là tình yêu thương nhưng quan trọng hơn là cả hai phải chia sẻ được lẽ sống và hệ giá trị suốt cả cuộc đời. Có thể khi cưới nhau, vợ chồng chưa thực sự là bạn đời, chưa xác định rõ lẽ sống, chưa có chung một hệ giá trị nhưng họ sẽ cùng thay đổi nhau và thay đổi chính mình để không chỉ là người chồng, người vợ của nhau, mà còn là người bạn trên hành trình còn lại của cuộc đời. Được như vậy, cuộc đời sẽ thăng hoa!
3. Chọn VIỆC để LÀM
Thực tế cho thấy đang có xu hướng chọn nghề và đổi nghề theo “mốt”. Nghề nào được gắn mác “thời thượng” là giới trẻ đổ xô vào tìm “vận may”. Thậm chí khi đã thành công với một nghề nào đó thì phần đông lại cùng tìm đến một nghề, đó là nghề chính trị. Thực ra, xã hội có nhiều đỉnh chứ không chỉ có một đỉnh là quyền lực: Trở thành một chính trị gia tài ba là một đỉnh; trở thành một nhạc sĩ lớn cũng là một đỉnh; trở thành một bác sĩ giỏi cũng là một đỉnh, trở thành một kiến trúc sư danh tiếng cũng là một đỉnh… Thực ra, làm một bác sĩ giỏi vẫn tốt hơn là làm một viện trưởng tồi, làm một giáo sư giỏi thì quan trọng hơn là làm một hiệu trưởng kém.Thực ra, làm sếp hay làm lính, làm thầy hay làm thợ, làm quan hay làm dân, làm chủ hay làm thuê… đều không quan trọng, mà quan trọng là làm cái gì mà mình giỏi nhất, phù hợp với tính cách của mình nhất và tạo ra giá trị nhiều nhất (cả giá trị tài chính và giá trị xã hội).Bên cạnh chọn công việc và nghề nghiệp phù hợp để làm,chúng ta cũng cần tìm cho mình một nơi làm phù hợp để gắn bó (công ty, tổ chức nào, ngành nào,lĩnh vực nào, vùng miền nào…). Điều này rất quan trọng vì công việc không chỉ là chỗ để đóng góp, mưu sinh mà còn là nơi để học tập và phát triển. Ngày nay, người ta bị ảnh hưởng bởi chính nơi mình làm việc nhiều hơn là nơi mình học. Cũng đều tốt nghiệp một trường đại học, đều học giỏi như nhau nhưng sau mấy năm ra trường sẽ có 2 cuộc đời khác nhau, 2 tương lai khác nhau mà nguyên nhân là vì đã có 2 lựa chọn về công việc khác nhau.
4. Chọn THẦY để HỌC
Sự học luôn là một trong những “sự nghiệp” quan trọng nhất trong cuộc đời của mỗi người. Dưới đây là 5 “người thầy” gần gũi và hữu ích nhất:ThầyĐây là những người thầy bằng xương bằng thịt, trực tiếp khai sáng trí tuệ và nuôi dưỡng tâm hồn cho chúng ta. Thầy thì có nhiều nhưng không phải ai cũng là người thầy đúng nghĩa, không phải ai cũng có thể dẫn dắt người học làm chủ quá trình học và khám phá thế giới vô tận của tri thức. Vì thế mà việc chọn đúng người để học, để tôn làm thầy có ý nghĩa quan trọng là vậy.
Sách
Sách là một trong những con đường dễ nhất, rẻ nhất và nhanh nhất cho sự học của mỗi người. Sách không chỉ là người thầy mà còn là người bạn tri kỷ, luôn tử tế, nhẫn nại, chờ đợi và chịu đựng chúng ta. Học từ sách là học từ những bộ óc vĩ đại nhất của loài người, là việc biến túi khôn của nhân loại vốn đã được đúc kết trong sách thành của mình. Chúng ta có thể đưa những người thầy vĩ đại nhất của thế giới, từ cổ tới kim, từ Đông sang Tây, về tận nhà để dạy cho mình, bất kể thời điểm nào mà chi phí nhiều khi chỉ bằng… tô phở.Tuy nhiên, không đọc sách thì chắc chắn là không giỏi nhưng đọc sách nhiều cũng chưa chắc tạo ra giá trị. Vấn đề còn nằm ở chỗ chọn sách nào để đọc, đọc như thế nào và học được gì từ sách.
Kinh nghiệm
Trên đời này có những cái mà không trả giá thì không thể học được, nhưng cũng có những cái không cần trả giá cũng có thể học được. Cuộc đời chúng ta sẽ không thể tránh khỏi những thất bại, vấn đề là sau mỗi thất bại thì cần phải rút ra được những bài học để những thất bại tương tự không còn tái diễn trong tương lai. Có những người cho rằng, nếu muốn không thất bại thì tốt nhất là đừng có làm gì nữa, nhưng nếu vậy thì sẽ có một thất bại cực lớn khác, đó là thất bại cả cuộc đời. Để hạn chế thất bại và trả giá, cần phải học rất nhiều từ 2 “người thầy” đầu tiên (thầy và sách).
Nhân vật Họ có thể là các bậc thức giả (để chúng ta học tri thức) hoặc những nhân vật có ảnh hưởng trong xã hội (học tinh thần, ý chí). Chính những câu chuyện thành công, thất bại, những trải nghiệm, tư tưởng, tài năng và nhân cách của họ sẽ là bài học quý giá cho mình trên con đường tự khai sáng bản thân mình và những người quanh mình.Tuy nhiên, phải có năng lực thẩm định, biết mình là ai, biết ai là ai, cái gì là cái gì, nếu không thì sẽ vô cùng nguy hiểm, người đáng khinh thì lại trọng, người đáng trọng lại khinh.
Internet
Được coi là một trong những phát minh quan trọng nhất của thế kỷ 20, làm cho cả nhân loại thay đổi một cách sâu sắc và khác biệt hẳn so với những thời kỳ trước đó, Internet thực sự là công cụ hữu hiệu cho sự học của mỗi người. Thời đại Internet hình thành 2 loại người: “Công dân mạng” và “Sâu mạng”. “Công dân mạng” là những người sử dụng Internet như một công cụ để nâng cao kiến thức của mình, phục vụ cho công việc và cuộc sống. Còn “sâu mạng” là những kẻ phung phí phần lớn thời gian, sức lực của mình vào những trò tiêu khiển trên mạng hoặc phá hoại, có thể có “sâu cuốn lá” (game online), “sâu đục thân” (coi phim ***), “sâu chat” (tán chuyện gẫu); “sâu phá hoại” (hacker mũ đen)… Là “công dân mạng” hay “sâu mạng”, đó cũng là một lựa chọn quan trọng đối với người trẻ trong thời đại này.
5. Chọn BẠN để CHƠI
Nói đến con người là hàm ý tới con người xã hội với nhiều mối quan hệ đan xen, và cũng chính những mối quan hệ đó định hình chân dung một người. Chẳng hạn, phương Tây có câu: Hãy nói cho tôi biết bạn của bạn là ai, tôi sẽ nói bạn là ai. Còn ông bà mình, khi nhận xét về một người hoặc một nhóm người nào đó thì thường nói: “Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu” hoặc “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” (ngoại trừ một số ít người quá đặc biệt, quá cá tính thì gần mực sẽ không đen, mà gần đèn cũng chẳng sáng).Trong đời người, ngoài người bạn quan trọng nhất là bạn đời thì cần phải có bạn tâm giao, bạn thâm giao, thậm chí là bạn tri kỷ, chứ không phải chỉ có những người bạn hời hợt, quen biết xã giao, ngoại giao. Họ là những người cùng nhau chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, chia sẻ một hệ giá trị và những lý tưởng sống, giá trị sống. Dẫu vậy, họ có thể có những con đường khác nhau trên hành trình lập thân, lập nghiệp.Có thể nói bạn bè chính là “tài sản” của mỗi người (“Giàu vì bạn, sang vì vợ”), là nguồn chia sẻ, động viên, hỗ trợ khi cần thiết. Song, như thế không có nghĩa là tận dụng bạn, lợi dụng bạn. Ngược lại, chơi với bạn cần phải xác định là để giúp bạn cùng phát triển và tiến bộ. Một tình bạn nếu được xây đắp trên tinh thần như vậy thì sẽ vô cùng bền vững và tốt đẹp.
------
Chọn Lẽ để sống là chọn “đích đến” và “bánh lái”, là chọn “hệ điều hành” cho cuộc đời;
Chọn Người để lấy là lựa chọn cho mình một gia đình, một tổ ấm, một nơi chốn bình yên để đi về, để là “bệ phóng” của nhau trong cả cuộc đời;
Chọn Việc để làm là chọn cho mình một sự nghiệp, để hiện thực hóa giấc mơ cuộc đời;
Chọn Thầy để học là chọn những nhân vật hoặc phương cách để trang bị cho mình những hiểu biết và năng lực để hoạch định và thực thi chiến lược cuộc đời; Chọn Bạn để chơi là kiếm tìm và nuôi dưỡng những tình bạn đẹp nhằm làm giàu có thêm cho cuộc đời của mình.
Tất cả những lựa chọn quan trọng này cần phải được đặt ra và thi triển hết sức nghiêm túc, để những câu hỏi ở đầu bài: Mình là ai? Mình sống để làm gì? Cuộc đời mình sẽ đi đâu về đâu? Rốt cuộc là mình sẽ dùng cuộc đời mình vào việc gì và việc đó có đáng để dùng hay không? Mình muốn có một cuộc đời ra sao?… được trả lời một cách trọn vẹn. Bằng cách đó người trẻ sẽ có một cuộc đời đáng sống, như có thể đúc kết thành: “Your Choices, Your Life” (Lựa chọn của bạn quyết định cuộc đời của bạn), “Your Values, Your Fate” (Giá trị bạn chọn sẽ quyết định số phận của bạn”).
------ Giản Tư Trung-------

Hành trình về phương Đông

Hành trình về phương Đông


Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thỏa mãn các nhu cầu vật chất vì chết là hết.
Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Cách đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên bố: “Thượng đế đã chết!”. Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự, thì một sự kiện xảy ra : Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh dẫn đầu sang thăm viếng nước Anh.
Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn Độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân.
Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ. Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách, “Life and teachings of Masters of the Far East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dãy Tuyết Sơn.
Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn Độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này.
Ấn Độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hoá của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn Độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.
Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn Độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thỏa mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ. Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn Độ giáo (Hinduism) không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác.
Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hoá Ấn Độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.
Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bổng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mải mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời :
- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu thập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”
Giáo sư Spalding ngạc nhiên :
- Tại sao ông biết rõ như thế?
Người Ấn mỉm cười :
- Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.
Giáo sư Spalding mất bình tĩnh :
- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?
Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh :
- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị Chân Sư nhờ tôi chuyển giao.
Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồng điện cao thế.
Ông lắp bắp:
- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…
Người Ấn nghiêm nghị trả lời :
- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dãy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.
Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding :
- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng Chân Sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…
Giáo sư Spalding thắc mắc :
- Ông vừa dùng danh từ Chân Sư, vậy chứ Chân Sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?
- Nếu ông tin ở thuyết tiến hoá của Darwin, thì tôi xin tóm tắt : “sự tiến hoá của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân Sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”
- Như thế thì các vị Chân Sư có thể làm các phép lạ được chứ ?
Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu :
- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc Chân Sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Giải Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.
Giáo sư Spalding cãi :
- Nhưng chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.
Người Ấn bật cười trả lời :
- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao ? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Thế tại sao các đấng Chân Sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng ?
Người Ấn nghiêm nghị :
- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng ?
Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không ? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao ? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biểu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn ?
- Nhưng…. nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu ?
Hành trình về phương Đông - Tin180.com (Ảnh 2)
Người Ấn mỉm cười :
- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đúng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại ? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không ? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu. Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.
Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị Chân Sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không ?
- Bạn thân mến, tất cả đều do nhân duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.
Nói xong, người Ấn Độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố Benares.
(Theo Hành trình về phương Đông)