Cái giá của sự bất công bằng
(Về giai cấp “siêu giàu” mới nổi)
Trần Hữu Dũng
Một trong những sự kiện gây
nhiều phản ứng trên thế giới trong vài năm gần đây (nhất là sau cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008) là sự phân hoá thu nhập ngày càng
rộng ra ở một số quốc gia, cụ thể là Trung Quốc, Nga, Brazil, Ấn Độ,
và ngay cả Mỹ. Thiểu số giàu có thì càng giàu hơn cực nhanh,
đến độ “khủng”, còn đa số trung lưu và nghèo thì hoặc là chững lại,
hoặc là nghèo hơn. Ở Mỹ chẳng hạn, trong hai năm 2009-2010, khi mà
thu nhập bình quân của 99% gia đình Mỹ chỉ tăng lên 0,9% thì thu
nhập của 1% giàu nhất tăng lên 11,6%! Một điều đáng lưu ý nữa
là trong năm quốc gia có nhiều tỷ phú (đô la) nhất thế giới (Mỹ,
Nga, Trung Quốc, Đức, Ấn Độ) thì hai nước vẫn còn tự xưng là “xã hội
chủ nghĩa”, và hai nước vẫn còn được xem là đang phát triển (Trung
Quốc, Ấn Độ)
.
Sự gia tăng bất công bằng thu
nhập này đã gây ra nhiều làn sóng công phẫn ở các quốc gia liên hệ,
không những từ thành phần xã hội bị “bỏ lại phía sau”, như phong
trào “chiếm Wall Street” ở Mỹ năm 2011, và nhiều hội đoàn tiến bộ
khác, mà còn được sự chú ý của
nhiều học giả, nhà nghiên cứu nổi tiếng (ví dụ như nhà kinh tế
Joseph Stiglitz,[1]
nhà báo Timothy Noah,[2]
Chrystia Freeland[3]...).
Nhiều bình luận gia (ví dụ như Jonathan Chait) cho rằng cuộc bầu cử
tổng thống Mỹ vừa qua có biểu hiện của một “chiến tranh giai cấp”
trong đó giai cấp trung lưu và nghèo của Mỹ mà đại diện là Obama đã
đánh bại giai cấp cực giàu của Mỹ mà Romney là đại diện.
Tại sao có những người
“siêu giàu”?
Chủ đích bài này không là những
người đã cực giàu từ lâu (như các vua chúa ở các vương quốc dầu hoả
Á Rập, hay những lãnh tụ độc tài ở một số quốc gia). Ngoài ra, cũng
phải nhìn nhận rằng nguồn gốc của những người siêu giàu mới nổi ở
mỗi nước một khác.[4]
Tuy nhiên, nói chung, vài lý do chính (mà độ chính xác sẽ được thẩm
định) của sự xuất hiện những người “siêu giàu” thường được viện dẫn
là như sau:
Ở một thái cực, một số (tương
đối rất ít) trở thành siêu giàu vì tài năng (kể cả tài tổ chức),
sáng kiến xuất chúng (có thể thêm chút may mắn) của họ. Đây là cách
giải thích của kinh tế học hàn lâm chính thống phương Tây. Nói đến
những người này thì ta nghĩ ngay đến những nhân vật nổi tiếng như
Bill Gates, Steve Jobs, Mark Zuckerberg... Ở thái cực đối nghịch là
những người siêu giàu nhờ những hoạt động bất hợp pháp (tham nhũng,
cướp đoạt, đầu cơ, buôn lậu..)
Song nhìn kỹ thì cách phân loại
trắng đen như trên là chưa đủ ngọn ngành. Như Stiglitz cho thấy,
tài sản kếch xù của Bill Gates, chẳng hạn, không phải chỉ nhờ vào
tài năng (dù quả là xuất chúng) của ông ta nhưng phần lớn là nhờ vào
vị trí độc quyền (hoặc hầu như độc quyền) của công ty Microsoft sau
khi ông thành lập nó. Chính sự độc quyền này đã đưa Bill Gates từ
hạng cực giàu lên hàng cực siêu giàu. Công ty Apple của Steve
Jobs cũng thế. Mỗi năm những công ty này bỏ ra hàng tỷ đô la
trong các vụ kiện tụng để giữ độc quyền cho một sản phẩm nào đó (kể
cả bằng sáng chế) của họ. Tất nhiên, những hoạt động này là hoàn
toàn hợp pháp, song chúng chứng tỏ họ đã nhân tài sản của họ lên
hàng trăm, hàng nghìn lần bằng cách lợi dụng, khai thác (những khe
hở) thể chế và luật pháp, thậm chí uốn nắn thể chế và pháp luật (qua
việc “lobby”) theo hướng có lợi cho họ.
Mặt khác, khách quan mà nói,
cũng phải công nhận rằng những người siêu giàu nhờ tham nhũng, cướp
đoạt, đầu
cơ, buôn lậu, cũng có một cái tài nào đó, dù cái “tài” ấy chỉ là
những mánh khoé luồn lách pháp luật, mua chuộc quan chức, lập vây
cánh, khuynh đảo
thị trường. Một điều nữa là dù tài sản này có nguồn gốc bất chính,
những người (tham nhũng, cướp đoạt, đầu cơ, buôn lậu...) này (hoặc gia đình họ)
đã “rửa” tài sản ấy qua những hoạt động kinh doanh hợp pháp (nhất là
bất động sản, ngân hàng). Nói khác đi, nhìn thoáng qua tài sản của
nhiều người “siêu giàu” hiện nay thì có thể cho rằng nó hợp pháp,
nhưng nếu truy ngược về quá khứ thì nguồn gốc của nó là phi pháp.
Tài sản đã là khá to lớn từ những hoạt động rõ ràng là phi pháp đã
được nhân ra hàng trăm, hàng nghìn lần qua những hoạt động hợp pháp,
biến họ từ những người giàu phi pháp thành những người
siêu giàu hợp pháp... Đi sâu thêm một bước, thử xem cách thức
mà những người này “nhân” ra những tài sản ấy là ra sao? Đại đa số
là nương nhờ vào những quan hệ cá nhân, những lỗ hổng trong luật
pháp. Đó là không nói đến việc chính họ có thể chủ động
“lobby” để nhà nước ra những luật lệ có lợi cho họ. Như Stiglitz
nhận xét, dù ngoài mặt thì những thế lực kinh tế đã tạo nên sự bất
công bằng thu nhập, nhưng chính chính sách của nhà nước đã tạo nên
các thế lực kinh tế ấy. Phần lớn sự bất công bằng hiện nay là
hậu quả của những gì mà nhà nước đã làm, và cũng là hậu quả của
nhiều việc mà nhà nước không làm.
Một nguồn gốc nữa của sự siêu
giàu là do tích cực khai thác sự thiếu kém thông tin của đa số những
người khác. Chẳng hạn như giới ngân hàng, bảo hiểm, kinh doanh
bất động sản ở Mỹ đã trở nên cực giàu nhờ “nghĩ ra” những công cụ
tài chính, bảo hiểm, những loại chứng khoán vô cùng phức tạp, không
ai hiểu nỗi.[5]
Cũng nên để ý rằng các nguồn gốc
khác nhau của sự “siêu giàu” này có “liên hệ hữu cơ” với nhau, đặc
biệt là với tham nhũng: trong nhiều trường hợp, tham nhũng cho một
cái “vốn” để những người giàu trở thành cực giàu (một cách hợp
pháp). Và chính những người cực giàu này khuyến khích, mớm đút, tạo cơ hội tham nhũng ở
những người khác.
Gần đây ở Việt Nam hai ý niệm
“tham nhũng” và “nhóm lợi ích” thường được ghép chung. Điều
này không hoàn toàn đúng. Theo nguyên ngữ thì “nhóm lơi ích”
là một tập họp của những người có cùng quyền lợi kính tế, hợp lực
với nhau để bảo vệ, tranh đấu cho quyền lợi ấy. Đó là một hiện
tượng đương nhiên, tự nó không có gì là xấu (chẳng hạn, xét cho
cùng, công đoàn để bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cũng là
một nhóm lợi ích chứ gì?). Song khi các nhóm lợi ích thông
đồng, cấu kết với tham nhũng ̶ trong đó tham nhũng dựa vào
đòn bẫy của nhóm lợi ích để tác động đến nền kinh tế, đến xã hội, và
vâng, đến thể chế chính trị nữa.. .̶ thì sự nguy hại của tham nhũng
được nhân lên nhiều lần. Không những thế, khi tham nhũng có
được một nhóm lợi ích làm hậu thuẫn thì dù vài cá nhân tham nhũng có
sa vào vòng lao lý, nhóm lợi ích đàng sau những người ấy vẫn còn đó,
tác hại của nó vẫn tiếp tục.
Kinh tế thị trường là một trò
chơi cực kỳ phức tạp và những người thắng cuộc chơi ấy hẵn là khôn
lanh ít nhiều hơn người khác. Song những người thắng cuộc cũng
thường có những bản chất không đáng ngưỡng mộ: khả năng luồn
lách pháp luật, hoặc uốn nắn pháp luật theo cách có lợi cho họ, sự
sẵn sàng lợi dụng kẻ khác – ngay cả những người nghèo; và chơi những
trò “bẩn”, nếu cần.
Ảnh hưởng kinh tế
của sự cực giàu
Cho đến gần đây, khi bàn về vấn
đề chênh lệch thu nhập, giới kinh tế chính thống thường chỉ nói đến
ảnh hưởng của nó đến tốc độ tăng trưởng vĩ mô. Những người theo phái
thị trường tự do (hay “tân phóng khoáng” – neoliberalism) thì cho
rằng bất công bằng thu nhập, dù tự nó không phải là tốt, là đáng cổ
vũ, cũng là một tiền đề khó tránh của một nền kinh tế muốn tăng
trưởng nhanh: những nguời giàu sẽ có xu hướng đầu tư nhiều hơn...
Nói cách khác, dù tầng lớp cực giàu có tích tụ tài sản của họ cách
nào đi nữa (miễn là hợp pháp) thì họ cũng có ích cho xã hội vì nhờ
họ mới có đầu tư, tạo công ăn việc làm cho lao động, đầu tàu cho sự
tăng trưởng của cả nước. Chẳng những mức độ tài sản của họ là có ích
cho xã hội, sự chênh lệch thu nhập cũng là cần thiết
để phát triển bởi nó tạo động lực cho lao động (cả tay chân
lẫn trí tuệ). “Cào bằng” thu nhập thì còn đâu những khuyến dụ
(incentive) để nỗ lực làm việc? Nói cách khác, theo những người
này, có sự đánh đổi không thể tránh giữa “hiệu quả kinh tế” và “công
bằng thu nhập”.
Có ba cách phản biện quan điểm
này.
Một là,
quan điểm ấy dựa trên giả định là nền kinh tế có sự cạnh tranh hoàn
hảo: ngay khoa kinh tế học chính thống cũng đã chứng minh từ lâu
rằng chỉ trong một nền kinh tế như thế thì lợi ích cá nhân mới trùng
hợp với lợi ích cộng đồng (nghĩa là, người thu được lợi ích cá nhân
cũng đem lại lợi ích cho tập thể). Trên thực tế, không nền
kinh tế nào có một sự “cạnh tranh hoàn toàn” như thế: những sự méo
mó (như độc quyền, chẳng hạn) sẽ khiến lợi ích cá nhân lớn hơn lợi
ích tập thể, và những người theo đuổi lợi ích cá nhân không hẵn sẽ
có ích cho tập thể. Nói rộng ra, trong một nền kinh tế bị “méo mó”
vì những “hoạt động tìm lợi nhuận trên bình thường” (rent seeking
activity) thì những người được hưởng những khoản tư lợi khổng lồ
không nhất thíết là những người có đóng góp lợi ích tương ứng cho
tập thể.
Hai là,
nhiều nhà tâm lý học, nhà khoa học xã hội (và thậm chí một số nhà
kinh tế học) đã điều tra cặn kẽ để tìm xem cái gì là động lực lao
động của con người, và họ khám phá rằng, ít nhất là trong nhiều
trường hợp, giới kinh tế gia đã lầm khi cho rằng thu nhập là động cơ
duy nhất. Đa số chúng ta thường làm việc hăng say hơn khi được
thúc đẩy bởi những động lực nội tại (chẳng hạn như sự mãn
nguyện khi làm một việc gì đó một cách hoàn hảo) hơn là bởi những phần
thưởng đến từ bên ngoài (như lương tiền). Lấy một ví dụ, trong hai
thế kỷ vừa qua, hầu hết các nhà khoa học góp phần nâng cao đời sống
của nhân loại không phải vì họ theo đuổi tiền tài. Đó là điều may
mắn cho chúng ta, bởi nếu những người xuất chúng ấy theo đuổi tiền
tài thì họ đã trở thành chủ ngân hàng, kinh doanh bất động sản, mà
không là nhà khoa học. Chính sự say mê tìm tòi chân lý, niềm vui của
hoạt động trí tuệ, hạnh phúc tuyệt vời của khám phá, phát minh – và,
vâng, sự ngưỡng mộ của đồng nghiệp ̶ là quan trọng nhất đối với
các nhà khoa học.
Ba là,
ngay trong trường hợp mà “thù lao” của những người cực giàu (nhất là
trong giới tài chính, ngân hàng) là “kỷ lục” với lý do rằng mức độ
thù lao ấy là cần thiết để những người này “cố gắng” hơn, nhiều
nghiên cứu đã phát giác rằng cái “gói thù lao” kếch xù (làm trầm
trọng thêm sự bất bình đẳng trong xã hội) đang được các đại công ty,
các ngân hàng, quỹ đầu tư áp dụng, đã khiến những người này có những
quyết định làm méo mó hơn, thay vì gia tăng hiệu quả của nền kinh
tế. Kinh tế học đã chứng minh rằng, vì thông tin và giám sát
không bao giờ là đầy đủ, rất khó (gần như không thể) thiết kế một
“gói thù lao” tối hảo (nhìn từ quan điểm quyền lợi cổ đông, đừng nói
chi đến lợi ích toàn xã hội) cho lãnh đạo các ngân hàng, giám đốc
các đại công ty.
Ngoài những tác động (có thể gọi
là vi mô) nói trên, sự cực giàu của một thiểu số còn có những ảnh
hưởng vĩ mô tai hại: nó sẽ bóp méo tỷ lệ các loại hàng nhập khẩu.
Những người cực giàu, với sức mua lớn, sẽ làm tăng nhu cầu nhập khẩu
những món hàng xa xỉ (xe xịn, hàng hiệu).[6]
Việc này sẽ làm giảm giá trị nội tệ, và làm mắc hơn những loại hàng
nhập khẩu mà đa số người tiêu dùng là có thu nhập thấp.
Ảnh hưởng xã hội của
tầng lớp “siêu giàu” mới nổi
Đối với một số chế độ (như ở
Trung Quốc) thì tình trạng cực kỳ bất bình đẳng có một hậu quả tai
hại duy nhất là gây bất ổn trong xã hội, hăm doạ sự tồn tại của chế
độ ấy. Nhận định này là đúng nhưng chưa đủ
● “Thu nhập tương đối” và
“hạnh phúc con người”
Gần đây, một số nghiên cứu đã
phát hiện rằng hạnh phúc con người còn tuỳ vào thu nhập tương đối
(ngoài mức thu nhập tuyệt đối để thoả mãn những nhu cầu sinh tồn).
Thu nhập càng chênh lệch thì những người có thu nhập trung bình,
hoặc thấp, càng thấy “kém hạnh phúc”. Tình trạng này càng trầm
trọng khi những người có thu nhập cao lại thích phô trương, hào
nhoáng, khiến những người có thu nhập kém hơn họ phải ganh tỵ, thèm
muốn.
Một ảnh hưởng nữa là ở cơ hội
tiến thủ của những người xuất thân từ gia đình có thu nhập thấp: Họ
sẽ thất vọng, nản chí khi thấy rằng chỉ con cái nhà giàu là có nhiều cơ hội học trường
giỏi (và nếu nước họ là chậm tiến thì sẽ được xuất ngoại du học).
Sau khi tốt nghiệp thì những “con cái nhà giàu” này tất nhiên sẽ ưu
tiên có những địa vị béo bở trong xã hội, cho họ cơ hội làm giàu
thêm. Cứ như thế, sự bất bình đẳng trong xã hội sẽ truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
● Bất bình đẳng thu nhập và
đời sống văn hoá
Trong một xã hội cực kỳ bất bình
đẳng, và nhất là khi tài sản của những người cực giàu là phi pháp,
hoặc những người này thiếu căn bản văn hoá, phô trương sự giàu có
của mình một cách vô ý thức, thì đời sống văn hoá của toàn xã hội
cũng sẽ bị xấu đi: Những lối ăn chơi phù phiếm, sa đoạ, xa xỉ, đua
đòi hàng hiệu nhập khẩu (nhất là khi lối sống này không bị kết án mà
còn được các phương tiện truyền thông đại chúng quảng bá, trầm trồ
ngợi khen), sẽ cuốn hút toàn thể xã hội vào con đường ấy, ngày càng
lệch xa những lối sống văn minh thật sự.
Phải làm gì?
Có những người cực đoan cho rằng
sự xuất hiện của tầng lớp siêu giàu mới nổi là một hiện tượng tự
nhiên, thậm chí có lợi cho xã hội, và những ai chống lại hiện tượng
này chỉ là những kẻ ganh tỵ xấu nết... Theo những người cực đoan
này, nhà nước không cần làm gì cả. Tuy nhiên, như đã trình bày ở
trên, hiện tượng siêu giàu mới nổi không phải là “tự nhiên” mà là
hậu quả của sự khôn lanh khai thác những “lỗ hổng” của thể chế, của
nền kinh tế, và gây nhiều hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho chính sự
phát triển của quốc gia, và rộng ra là cho mức độ an sinh của tuyệt
đại đa số trong xã hội.
Đàng khác, không ai có thể khách
quan mà nghĩ rằng thu nhập của mọi người trong xã hội đều phải như
nhau. Một sự bất bình đẳng thu nhập nào đó là không thể tránh, thậm
chí cần thiết. Vấn đề ở đây là sự xuất hiện một thiểu số cực giàu,
trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, mà thu nhập dù hiện tại
có là hợp pháp, đã vượt quá xa tài sức và sự đóng góp của họ cho xã
hội.
Hầu hết các nhà lãnh đạo trên
thế giới, từ tổng thống Mỹ Barack Obama đền nguyên tổng bí thư Trung
Quốc Hồ Cẩm Đào, đếu ít nhiều nghĩ rằng nhà nước cần can thiệp để
làm giảm sự bất bình đẳng thu nhập trong xã hội. Một chính
sách cấp thời có thể là tăng suất thuế đánh vào người giàu (như ông
Obama hiện đề nghị). Tuy nhiên, như đã trình bày trong bài
này, một chính sách dài hạn phải là chấn chỉnh những méo mó kinh tế
(ưu tiên gỡ bỏ những độc quyền, đặc lợi, chế độ “xin/cho”, và tạo
một sân chơi bình đẳng cho mọi người). Sự tái cấu trúc thể chế này
sẽ cực kỳ khó khăn vì chắc chắn nó sẽ gặp sự kháng cự mãnh liệt,
công khai lẫn ngấm ngầm, của giai cấp cực giàu hiện hữu (cấu kết
thành các “nhóm lợi ích”) với những thế lực tài chính, kinh tế, và
vâng, chính trị nữa, vô cùng to lớn của họ. Một sự tái cơ cấu
như thế chỉ có thể thành công nếu nó không bị ảnh hưởng của bất cứ
nhóm lợi ích nào, nhất là trong một thực trạng mà những nhóm lợi ích
ấy lại “tay trong tay” với tham nhũng.
Trần Hữu Dũng
21/12/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét