Năm Chướng Ngại Trong Tu Thiền
- Bài nội dung liên quan: Hôn trầm
Chướng ngại chính cản
trở sự thành công trong hành thiền và phát tuệ giải thoát thường có dạng
của một trong năm loại triền cái hay chướng ngại. “Triền cái”
là sự ngăn che, làm cho vướng mắc trong vòng luân hồi. Tiếng Phạn là
“Nìvarana”, và tiếng Anh dịch là “Hindrances”. Toàn thể pháp hành đưa
đến Giác ngộ có thể được diễn tả như một nỗ lực để vượt
qua năm chướng ngại nầy, đầu tiên là tạm thời đè nén chúng để đắc
Thiền-na và phát tuệ minh sát, rồi dần dần chế ngự chúng một cách vĩnh
viễn qua công phu phát triển Bát Chánh Ðạo. Năm chướng ngại đó là gì? Ðó
là :
- - Tham dục (Kàmacchanda, Sense desire)
- - Sân hận (Vyàpàda, Ill will)
- - Hôn trầm (Thìna-middha, Sloth and Torpor)
- - Trạo cử (Uddhacca-kukkucca, Restlessness)
- - Hoài nghi (Vicikicchà, Doubt)
Trong nhiều bài kinh, Đức Phật giảng dạy tóm tắt việc chế ngự năm triền cái ấy như sau:
“… Vị Tỳ-khưu lựa
một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi
tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn
xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chánh
niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham
ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân
hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân
hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên,
với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết
hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử,
nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị
ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết
nghi ngờ đối với các thiện pháp…”
Ở đây, trong bài nầy, chúng tôi xin giải thích thêm về năm chướng ngại ấy trong tiến trình tu tập hành thiền của người con Phật.
1. THAM DỤC
là để chỉ trạng thái mong cầu dục lạc qua năm giác quan của hình dáng,
âm thanh, mùi hương, vị nếm, và cảm xúc. Tham dục đặc biệt không bao gồm
các ước nguyện được hạnh phúc qua căn thức thứ sáu là tâm ý.
Trong một dạng cực đoan,
tham dục là lòng mong ước mãnh liệt để tìm khoái lạc trong những hoạt
động tình dục, thức ăn ngon hoặc âm nhạc du dương. Nó cũng bao gồm lòng
ham muốn thay thế các cảm giác khó chịu hay đau đớn bằng các cảm giác dễ
chịu, có nghĩa là lòng ham muốn được có cảm giác thoải mái.
Đức Phật ví sự tham dục
như thể đi vay nợ. Các sự khoái lạc ta có qua năm căn đều phải trả lại
qua các đau khổ về biệt ly, mất mát hoặc sự trống rỗng đói khát, vốn sẽ
theo đuổi mãnh liệt sau khi các khoái lạc đã bị tiêu dùng. Cũng như bất
cứ món nợ nào cũng phải trả thêm lời, và như thế Ðức Phật dạy rằng sự
khoái lạc đó thật ra là nhỏ bé so với các đau khổ phải hoàn trả.
Trong khi hành thiền,
thiền sinh vượt qua lòng tham dục bằng cách buông xả mọi quan tâm về
thân thể và hoạt động của năm giác quan. Nhiều người cho rằng năm giác
quan đó hiện diện để phục vụ và bảo vệ tấm thân, nhưng thật ra, tấm thân
nầy hiện hữu để phục vụ cho năm giác quan, vì chúng dàn dựng thế giới
để tìm cầu khoái lạc. Thật thế, Đức Phật đã từng bảo rằng: “Năm giác
quan chính là thế giới”, và để thoát ra thế giới, để vui hưởng hạnh phúc
siêu thế của Thiền-na (jhàna), chúng ta phải biết xả ly các quan tâm về
thân và năm giác quan của nó.
Khi vượt qua được tham
dục, tâm của thiền sinh sẽ không còn để ý đến các hứa hẹn của khoái lạc,
và cũng không còn để ý đến sự khoan khoái của cơ thể. Thân thể dường
như tan biến, và năm giác quan dường như đóng lại. Sự khác biệt giữa khi
còn tùy thuộc hoạt động của năm giác quan và khi vượt qua chúng cũng
như thể sự khác biệt khi ta nhìn ra bên ngoài qua khung cửa sổ và khi ta
nhìn vào gương soi. Tâm ta khi được giải thoát khỏi hoạt động của năm
giác quan, sẽ có khả năng nhìn rõ ràng vào bên trong và thấy rõ bản chất
thật sự của nó. Từ đó, trí tuệ nảy sinh để cho ta biết được ta là ai,
từ đâu và tại sao.
2. SÂN HẬN
là để chỉ trạng thái mong muốn trừng phạt, gây khổ hoặc tàn phá. Nó bao
gồm lòng thù ghét một người hoặc một hoàn cảnh nào đó; và vì nó tạo ra
một năng lực mãnh liệt, nó rất hấp dẫn và tạo lôi cuốn. Có lúc, nó có vẻ
như được biện minh vì nó có một sức mạnh làm băng hoại khả năng phán
xét vô tư của ta. Nó cũng bao gồm lòng thù hận tự thân, thường được xem
như một mặc cảm tội lỗi, để tước đoạt mọi khả năng tạo hạnh phúc. Trong
khi hành thiền, lòng sân hận thường hiện ra như sự chán ghét vào chính
đối tượng thiền quán, bỏ rơi nó, để hướng sự chú tâm của ta lang thang
qua các nơi khác.
Đức Phật ví lòng sân hận
như thể người bị bệnh. Bệnh tật cản trở sự tự do và hạnh phúc của sức
khỏe. Cũng như thế, lòng sân hận cản trở sự tự do và hành phúc của an
bình.
Sân hận được vượt qua
bằng các áp dụng lòng Từ mẫn. Khi có sự sân hận đối với người nào, lòng
Từ mẫn dạy cho ta thấy được các sự kiện khác về người ấy, ngoài sự kiện
đang làm ta đau khổ, để thấy rằng tại sao người ấy làm khổ ta – thông
thường, giúp ta thấy được ngay chính người ấy cũng đang bị đau khổ – và
khuyến khích ta bỏ qua các đau khổ của chính mình, và nhìn người khác
với lòng từ bi.
Tuy nhiên, nếu ta chưa
làm được như thế, lòng Từ mẫn cho chính bản thân cũng sẽ giúp cho ta
không còn sân hận vào tự thân, chấm dứt tự làm khổ mình bằng các ký ức
về những hành động đau khổ. Như thế, khi có sân hận vào ngay chính mình,
Từ mẫn sẽ giúp ta thấy được lỗi lầm của chính mình, khuyến khích ta tự
tha thứ cho chính mình, giúp ta học được qua các bài học đó, rồi buông
xả chúng. Kế đến, nếu ta có lòng sân hận về đối tượng tham thiền –
thường là lý do khiến thiền sinh không được an bình – lòng từ mẫn sẽ
giúp ta bám sát và nâng niu đối tượng đó một cách trìu mến và vui thích.
Cũng như bà mẹ thường có
bản tính tự nhiên thương yêu đứa con, thiền sinh có thể đối xử với hơi
thở của mình với các cảm giác tương tự. Như thế, thiền sinh không thể
nào quên lãng hơi thở của mình – một đối tượng tham thiền – cũng như thể
bà mẹ không thể nào bỏ quên đứa con trong khi vào chợ. Từ đó, thiền
sinh không thể nào xao lãng hơi thở vì một ý nghĩ nào đó, cũng như bà mẹ
không thể nào buông bỏ đứa con mà bà đang bồng bế trong tay. Khi lòng
sân hận được vượt qua, ta sẽ tạo được một liên hệ lâu bền với mọi người,
an vui với đối tượng tham thiền, và từ đó ta sẽ hoàn toàn thấm nhập vào
Thiền-na.
3. HÔN TRẦM
là để chỉ trạng thái nặng nề của cơ thể và mờ tối của tâm thức, kéo ta
vào một sự lừ đừ và chán nản. Ðức Phật ví nó như thể bị giam vào một
phòng tối, chật chội, không thể di chuyển tự do, trong khi bên ngoài là
trời nắng sáng. Trong khi hành thiền, nó làm cho ta chỉ có những giác
niệm rời rạc, yếu ớt và từ đó đưa đến sự ngủ gục trong lúc thiền mà ta
lại không biết!
Hôn trầm được vượt qua
bằng cách làm khơi dậy năng lực tinh tấn. Nguồn năng lực lúc nào cũng có
sẵn nhưng ít người biết cách khai thác nó. Đặt một mục đích, một mục
đích vừa phải, là một cách khôn ngoan và hữu hiệu để phát sinh năng lực,
để tạo nhiều hứng khởi vào công việc trong tay. Một đứa bé con thường
có một sự thích thú tự nhiên, và tiếp theo là năng lực, bởi vì thế giới
bên ngoài rất mới lạ đối với em. Như thế, nếu chúng ta học cách nhìn vào
đời sống của chính ta, hoặc pháp thiền của ta, bằng tâm trí của một
người mới bắt đầu (“sơ tâm”), ta sẽ luôn luôn nhìn nó qua những góc nhìn
mới lạ và những điều khả thi tươi tắn, với nhiều nghị lực và tinh tấn,
xa rời trạng thái buồn chán.
Tương tự, ta có thể tạo
hứng khởi vào điều đang làm bằng cách huấn luyện tư tưởng để nhìn được
cái đẹp trong chuyện thông thường. Từ đó, phát sinh sự thích thú, tránh
khỏi trạng thái nửa sống nửa chết của hôn trầm.
Tâm thức có hai nhiệm vụ
chính: “cái làm” (tác nhân) và “cái biết” (tri nhân). Hành thiền là để
làm an dịu “cái làm” để đạt đến an định tuyệt đối trong khi vẫn duy trì
“cái biết”. Hôn trầm sẽ xảy ra khi thiền sinh bất cẩn, làm an dịu “cái
làm” lẫn “cái biết”, không có khả năng để phân biệt chúng.
Hôn trầm là một vấn đề
rất thông thường, từ từ lan rộng ra rồi bao trùm tâm thiền sinh. Một
thiền sinh thiện xảo phải biết canh chừng, phát hiện ngay những dấu hiệu
đầu tiên của hôn trầm, nhận định chúng và phải có phản ứng đối phó kịp
thời. Cũng như khi ta đến ngã ba đường, ta có thể chọn một đường cho tâm
thức xa rời sự hôn trầm. Hôn trầm là một trạng thái khó chịu của thân
và tâm, quá cứng đọng không thể đi vào sự an lạc của Thiền-na, và quá mù
quáng không thể khám phá ra các Tuệ quán. Tóm lại, đây hoàn toàn là một
sự phí phạm thì giờ.
4. TRẠO CỬ là
để chỉ trạng thái tâm như khỉ vượn chuyền cành, không bao giờ chịu ở
yên tại bất cứ chỗ nào. Nó được tạo ra từ trạng thái tìm lỗi trong tâm,
không bao giờ chịu thỏa mãn với sự việc như thật, và như thế phải phóng
ra ngoài tìm những hứa hẹn tốt hơn, lúc nào cũng nhìn sang nơi khác.
Đức Phật ví trạo cử như
một tên nô lệ, tiếp tục chạy nhảy theo lệnh của ông chủ khắc nghiệt luôn
luôn đòi hỏi sự toàn hảo, và như thế không bao giờ cho phép nó được
dừng nghỉ.
Trạo cử được vượt qua
bằng cách phát triển sự biết đủ (tri túc), là đối nghịch với sự tìm lỗi.
Ta học cách an vui đơn giản qua sự hài lòng với chút ít, chứ không phải
lúc nào cũng đòi hỏi cho nhiều. Ta cảm thấy biết ơn trong giây phút
hiện tại, chứ không phải moi tìm các khiếm khuyết của nó. Như một thí
dụ, trạo cử khi hành thiền thường là sự nóng nảy mong sao để tiến nhanh
vào giai đoạn kế tiếp. Thế nhưng, cấp độ tiến triển nhanh nhất thường
xảy ra cho những thiền sinh nào chỉ biết bằng lòng với những gì họ đạt
được ngay trong hiện tại. Vì có sự tri túc, hài lòng đó đã làm chín muồi
để đi vào giai đoạn kế tiếp.
Cho nên, ta phải cẩn
thận về thái độ “làm nhanh cho xong” và thay vào đó, cần phải học cách
an nghỉ trong trạng thái hài lòng và tri túc. Làm như thế, “cái làm” sẽ
tan biến và công phu hành thiền sẽ nở hoa.
Hối hận là một trạng thái đặc biệt của trạo cử, là nghiệp
quả của các hành động bất thiện. Cách duy nhất để vượt qua hối hận, sự
trạo cử do lương tâm cắn rứt, là phải giữ gìn giới đức, tập sống tử tế,
khôn ngoan và dịu dàng. Một người không có đạo đức hoặc sống buông lung
thì không thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khi hành thiền.
5. HOÀI NGHI
là để chỉ trạng thái nội tâm đặt nhiều câu hỏi rối ren trong lúc thiền
sinh cần yên lặng để tiến sâu hơn vào tâm thức. Nghi ngờ tạo ra câu hỏi
về chính khả năng của ta: “Không biết tôi có làm được việc nầy không?”,
hoặc nghi vấn về pháp hành: “Không biết cách nầy có đúng không?”, hoặc
ngay cả nghi vấn về ý nghĩa: “Cái gì đây?”. Cần phải nhớ rằng các câu
hỏi đó là chướng ngại trong lúc hành thiền, bởi vì chúng đặt ra không
đúng thời, và vì thế trở thành sự xâm chiếm, làm lu mờ tri kiến thanh
tịnh.
Đức Phật ví nghi ngờ như
thể bị lạc trong sa mạc, không nhận ra được các mốc điểm. Sự nghi ngờ
đó được vượt qua bằng cách thu thập các lời hướng dẫn rõ ràng, có một
bản đồ tốt, để giúp ta thấy được các mốc điểm vi tế trong vùng đất không
quen thuộc của tâm thiền sâu kín, và từ đó biết được con đường phải đi.
Nghi ngờ về khả năng của chính mình có thể được vượt qua bằng cách nuôi
dưỡng lòng tự tin với một vị thiền sư tốt. Vị thiền sư có thể ví như
một huấn luyện viên thể thao có khả năng thuyết phục các vận động viên
rằng họ có thể thành công.
Đức Phật dạy rằng mỗi
người chúng ta có thể, và sẽ đắc Thiền-na và Giác ngộ nếu ta thực hành
theo các hướng dẫn của Ngài một cách cẩn thận và kiên nhẫn. Chỉ có một
điều không chắc chắn là “không biết đến khi nào”! Kinh nghiệm hành thiền
cũng giúp ta vượt qua các nghi ngờ về khả năng của ta và về con đường
hành đạo. Khi ta tự thực chứng được các giai đoạn tốt đẹp của con đường,
ta khám phá rằng thật ra ta có khả năng cao nhất, và đây đúng là con
đường đưa ta đến mục đích đó.
Nghi ngờ — trong dạng
kiểm tra thường xuyên : “Đây có phải là Thiền-na? Tôi được kết quả đến
đâu?” — được vượt qua bằng cách nhận thức rằng các câu hỏi như thế nên
hoãn lại cho đến lúc cuối, trong những phút cuối của buổi thiền. Vị bồi
thẩm tòa án chỉ có quyết định trong ngày cuối phiên tòa, khi các tang
chứng đã được trình bày. Cũng như thế, một thiền sinh thiện xảo chỉ biết
yên lặng thu nhặt mọi bằng chứng, và chỉ xét duyệt trong những phút
cuối để khám phá ý nghĩa của nó. Trong hành thiền, nghi ngờ hoàn toàn
tan biến khi tâm thức hoàn toàn tin tưởng vào sự vắng lặng, không còn
gây rối loạn với các đối thoại, các lời thì thầm bên trong. Cũng như thể
ta có được một tài xế tài ba, ta hoàn toàn tin tưởng người đó, và ta
ngồi yên lặng quán sát ghi nhận trên suốt cuộc hành trình.
*
Khi hành thiền, nếu có
vấn đề xảy ra thì đó là vì có sự hiện diện của một trong Năm Triền Cái
nầy, hoặc là sự kết hợp của chúng. Như thế, khi thiền sinh gặp khó khăn,
thiền sinh nên dùng các định nghĩa như trên của Năm Triền Cái như là
bảng kiểm tra để xác định vấn đề. Từ đó, thiền sinh biết được cách hóa
giải thích hợp, áp dụng cẩn thận, vượt qua trở ngại để tiến vào mức
thiền cao sâu hơn.
Khi hoàn toàn vượt qua
được năm sự ngăn che đó, hàng rào giữa thiền sinh và sự an lạc của
Thiền-na sẽ không còn hiện hữu nữa. Do đó, sự kiểm chứng chắc chắn nhất
để biết Năm Triền Cái nầy đã thật sự được vượt qua là làm sao để phát
triển được khả năng của thiền sinh để đem tâm an định vào các tầng
Thiền-na.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét