Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng
sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản.
Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông
Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc,
Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là:
Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada,
Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng
danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng
sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt
sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng
sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.
Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ
sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau:
Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính
trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay
đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng
châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.
Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ
bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy
tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.
Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.
Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng
cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn
nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo
khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc
cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy
nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam
hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm
được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên
và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa
đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn
chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.
Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa
của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn
bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.
Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.
Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một
thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một
cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có
lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không
phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ
nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền
với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là
độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết.
Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại
nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.
Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả
hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn
giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện
quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng
và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa
cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở
bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ
nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ
vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành
chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng
sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu
thuộc địa như Việt Nam.
Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất
công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày
trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không
còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ
vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một
khoảng trống dưới chân chế độ.
Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ
nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa
trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc,
không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là
một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho
giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ
gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý
thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả
đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không
có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí
Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người.
Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được
khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung
Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.
Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.
Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.
Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao
nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận
dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc
khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước
bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng
yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ
thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và
gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai
kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện
chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm.
Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc
có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.
Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống
Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai
hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại
nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân
chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng
trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị
xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ
điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.
Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa
quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh
tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương
châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để
theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp
(không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để
phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có
thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.
Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính
trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam
hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn
trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi
yêu cầu cải cách chính trị.
Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực
kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất
của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ
ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và
hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi
so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các
nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng
như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn
đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan
vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng
toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền
không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.
Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không
đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty
quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân
chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam
không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại,
chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.
Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn
nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn
định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện
nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của
nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản
đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ
ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và
trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày
càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an
cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng
kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với
quần chúng.
Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét