Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

HIỂM HỌA CỦA ĐỒNG ĐÔ-LA MỸ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VÀNG

Nếu căn cứ theo bản chất thì tiền tệ có thể được chia ra thành hai loại cơ bản là tiền vay mượn và phi vay mượn. Tiền vay mượn chính là hệ thống tiền tệ pháp định đang lưu thông chủ yếu ở các quốc gia phát triển hiện nay, thành phần chủ yếu của nó bao gồm các khoản vay mượn “tiền tệ hoá” của chính phủ, các công ty cũng như tư nhân.
Đồng đô-la Mỹ chính là một trường hợp điển hình nhất trong số các đồng tiền vay mượn. Nó được tạo ra cùng lúc với quá trình sinh ra nợ nhưng cũng đồng thời bị triệt tiêu khi nợ được hoàn trả. Mỗi một đồng đô-la Mỹ trong lưu thông đều có giá trị như một hoá đơn ghi nợ mà mỗi hoá đơn ghi nợ như vậy đều sinh ra lãi hàng ngày và không ngừng tăng lên theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con. Vậy những khoản thu nhập lãi suất lên đến con số khổng lồ này thuộc về ai? Câu trả lời là: thuộc về hệ thống ngân hàng đã tạo ra đồng đô-la Mỹ. Lợi tức của đồng đô-la vay mượn là phần nằm ngoài tổng lượng tiền tệ vốn có, và tất nhiên, nguồn lợi tức này đòi hỏi đồng đô-la vay mượn mới phải được tạo ra bên cạnh tổng lượng tiền tệ hiện có, hay nói cách khác, người dân vay tiền càng nhiều thì nguồn tiền cho vay sẽ càng tăng. Việc vay mượn và tiền bạc gắn chặt với nhau mà kết quả logic tất yếu của việc này chính là tiền cho vay mãi mãi tăng lên, cho đến khi áp lực lãi suất của món nợ ấy vượt quá sự phát triển của nền kinh tế và dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống. Tiền tệ hoá dịch vụ vay mượn là một trong những nhân tố gây bất ổn nghiêm trọng nhất trong nền kinh tế hiện đại và nó thông qua dự chi tương lai để thoả mãn nhu cầu hiện tại. Câu nói của người Trung Quốc xưa đại loại “thu không bù chi” chính là muốn đề cập đến ý này.
Một loại tiền tệ khác, đó chính là tiền tệ phi vay nợ mà vàng bạc là đại diện. Loại tiền tệ này không cần đến sự hứa hẹn của bất cứ người nào, không phải là món nợ của bất cứ ai, và thứ mà nó đại diện chính là thành quả lao động đã hoàn thành của loài người, là thứ có được từ sự tiến hoá tự nhiên trong thực tiễn xã hội kéo dài hàng mấy nghìn năm của loài người. Nó không cần đến sự cưỡng chế của bất cứ thế lực nào, có thể vượt qua mọi thời đại và ranh giới quốc gia và là phương pháp thanh toán cuối cùng nhất trong hệ thống tiền tệ.
Trong tất cả các loại tiền tệ, vàng bạc đồng nghĩa với việc “sở hữu thực tế”, còn tiền pháp định lại đại diện cho “phiếu nợ + sự hứa hẹn”. Và hàm lượng vàng của hai loại tiền này có sự khác nhau về bản chất.
Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc nằm giữa ranh giới hai loại tiền này. Mặc dù trước mắt, trong hệ thống đồng Nhân dân tệ vẫn đang tồn tại yếu tố “dịch vụ vay mượn hoá tiền tệ”, nhưng nếu căn cứ vào chủ thế của đồng Nhân dân tệ thì nó vẫn thể hiện đủ chất và lượng của sản phẩm và dịch vụ đã hoàn thành trong quá khứ. Việc phát hành đồng Nhân dân tệ không hoàn toàn giống như việc phát hành đồng đô-la Mỹ (đồng đô-la Mỹ cần phải dùng nợ quốc gia (công trái) để làm thế chấp). Do bởi Ngân hàng trung ương tư hữu phát hành cho nên đồng nhân dân tệ tránh được khả năng các khoản chi trả lợi tức khổng lồ rơi vào túi tư nhân. Nhìn từ góc độ này, thuộc tính của đồng nhân dân tệ có vẻ gần hơn với vàng bạc. Đồng thời, do không có vàng bạc làm chỗ dựa nhưng lại có thuộc tính cơ bản của đồng tiền pháp định, đồng nhân dân tệ cần phải dựa vào sức cưỡng chế của chính phủ mới có thể đảm bảo giá trị tiền tệ.
Sự hiểu biết về chế độ tiền tệ pháp định của phương Tây, đặc biệt là bản chất của đồng đô-la Mỹ, là tiền đề cần thiết cho sự cải cách tương lai của đồng Nhân dân tệ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét